BÀI HAY TRÊN TUẦN VIỆT NAM

Thứ Hai, 21 tháng 5, 2012


NHỮNG LỖI LẦM LÀM TIM BÁC THÊM ĐAU


“Nỗi đau dân nước” giờ đây là gì, khi mà sự nghiệp giải phóng dân tộc đã hoàn thành, non sông quy vào một mối đã hơn phần ba thế kỷ, bằng thời gian của cả hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc gộp lại? 
Dạo ấy, trong “Cửa Mở”, một tập thơ làm xáo động dư luận một thời, Việt Phương viết vào dịp Bác Hồ mất, mở đầu bài: “Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương”:
“Trời đổ mưa, đi viếng Bác, đồng bào chờ, bị ướt
Bác thương đồng bào, con biết Bác không vui”.
Những ngày này thì trời lại đang nắng gắt. Đài truyền hình vừa đưa tin những vùng đất chuyên canh trồng ngô huyện miền núi ở Lào Cai đang nứt nẻ. Chẳng phải chỉ ở miền núi mới có nắng nóng như thiêu, như đốt, Hà Nội cũng đang nóng dữ.
Vậy thì liệu “trời không đổ mưa” như buổi ấy có làm khuây khỏa được nỗi niềm “không vui” của Bác như tác giả của “Cửa Mở” day dứt?
Cũng vào dịp ấy, Tố Hữu viết:
Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu…
Đau, bởi nhẽ
“Bác ơi tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người [Bác ơi!]
Chao ôi, “nỗi đau dân nước” buổi ấy là nỗi đau chiến tranh, nỗi đau của những người mẹ khắc khoải ngóng con từ chiến trường máu lửa tàn khốc, nỗi đau của người vợ nhận được tin dữ, nỗi đau của bom B52, của chất độc “diệt cỏ” rải xuống cây cỏ, xóm làng, nỗi đau của xà lim “chuồng cọp”, trại tập trung tra tấn tù đày, bọn chó săn tay sai rình rập khắp nơi để đe dọa, bắt bớ, đánh đập những người yêu nước…
Thế còn “nỗi đau dân nước” giờ đây là gì, khi mà sự nghiệp giải phóng dân tộc đã hoàn thành, non sông quy vào một mối đã hơn phần ba thế kỷ, bằng thời gian của cả hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc gộp lại?
Gộp lại thời gian thì đồng thời cũng “gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thành nỗi đau của tôi” tích tụ trong trái tim Hồ Chí Minh. Câu này Bác nói với một nhà báo nước ngoài 50 ngày trước khi mất, lúc “ngừng đập trái tim tột bậc con người” [Việt Phương. Cửa Mở].
Ảnh tư liệu
Chính vì thế, chắc là trong những ngày này Bác cũng khó vui khi “người thắng trận này không phải nhân dân” [Nguyễn Minh Thuyết. Đối thoại]
và ” …Khi mồ hôi trở nên quá rẻ
Kẻ ranh ma trở nên quá giàu” [Nguyễn Khoa Điềm. Cánh đồng buổi chiều]
Đắm mình trong những miên man suy ngẫm cứ ngỡ như là Bác đã nói về những điều này khi trong Di chúc Bác đã lưu ý đến “cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”! Đây là điều Hồ Chí Minh gọi là “cuộc chiến đấu khổng lồ”, mà để giành thắng lợi thì phải “động viên toàn dân, tổ chức giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”!
“Những cái cũ kỹ, hư hỏng” thì đã quá rõ, cho dù thông thường thì chúng lại đội lốt của người vì nước vì dân để lừa mị dân. Thế còn những “cái mới mẻ tốt tươi” là gì nếu không phải là dân chủ và tự do? Độc lập đã hoàn thành, vấn đề còn lại phải là dân chủ và tự do. Ai cũng nhớ câu nói của Hồ Chí Minh từ những ngày chính quyền mới thành lập năm 1946: “Nếu độc lập mà dân không được hưởng tự do và hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”.
Dân chủ là tiền đề tất yếu để có tự do và hạnh phúc, là công cụ và phương tiện để đấu tranh giành tự do và xây đắp hạnh phúc. Không ai cho không quyền đó. Máu chảy thành sông, xương chất thành núi để giành độc lập, điều kiện tiên quyết để đấu tranh cho dân chủ và tự do! Phải chăng đây chính là “cuộc chiến đấu khổng lồ”? Nghĩ kỹ về cuộc “chiến đấu khổng lồ” mà Bác viết trong Di chúc có dáng dấp của những lời tiên tri.
Tiên tri? Đúng như vậy. Có người gọi là “những dự cảm thiên tài” của những tầm vóc vĩ nhân. Xin gợi lại vài cứ liệu lịch sử để hiểu thêm về điều đó: Ví như, năm 1941, trong cuốn sách nhỏ Bác viết làm tài liệu tuyên truyền về “Lịch sử nước ta” bằng thơ lục bát, ở cuối có mục “Những năm tháng quan trọng”, Bác viế : “1945-Việt Nam độc lập”! Trong Hồi ký của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết, lúc ấy “Anh em có người nói sớm, kẻ nói muộn. Bác nghe trao đổi chỉ nói:” Để rồi xem”.
Một ví dụ khác: trong diễn văn đọc tại lễ mừng Quốc khánh 2.9.1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Toàn dân ta đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh, thì chậm lắm là 15 năm nữa, Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, Bắc-Nam nhất định sẽ sum họp một nhà”. Trong bút tích bản thảo in trên báo “Nhân Dân” số ra ngày 30.4.1985 cho thấy: Bác gạch dưới những chữ “chậm lắm là 15 năm nữa”! Rồi chuyện Bác từng căn dặn Tư lệnh bộ đội Phòng không-Không quân: “Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội!
Phải chăng những dấu ấn của thiên tài ấy là sự thăng hoa kỳ diệu của bản lĩnh Hồ Chí Minh. Bản lĩnh dám đặt ra và giải quyết những vấn đề lý luận có ý nghĩa thực tiễn. Vì mục tiêu trước sau như một là giải phóng dân tộc, đem lại độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân mà Hồ Chí Minh dám có quyết định táo bạo, cho dù đau đớn, là tuyên bố Đảng tự giải tán chính vào lúc giành được chính quyền vào năm 1945. Không kiên định tinh thần Tổ quốc trên hết, không thể có bản lĩnh để vạch ra quyết sách sáng suốt tuy hết sức đau đớn ấy.
Đúng là “Hồ Chí Minh là người linh hoạt, chủ động, từ việc lớn đến việc nhỏ, từ tuổi thanh niên đến cuối đời. Có thể nói con người ấy có sự dị ứng bẩm sinh với bệnh giáo điều rập khuôn, bệnh công thức sáo mòn”. Có được điều đó vì “Hồ Chí Minh có sự nhạy cảm đặc biệt đối với lịch sử, thấu hiểu cuộc sống con người, có nhận thức sâu về vận mệnh dân tộc, về hướng đi của thời đại”. Với những phẩm chất được hun đúc, trui rèn trong ngọn lửa chiến đấu hơn nửa thế kỷ, đáp ứng được đòi hỏi của lịch sử, người thanh niên yêu nước, bằng bản lĩnh phi thường của mình đã trở thành Hồ Chí Minh.
Đúng là không phải chiếc ghế nguyên thủ quốc gia mà chính là sự “nhạy cảm”, sự “thấu hiểu”, “sự nhận thức” đó khiến cho Người được lịch sử chọn lựa làm lãnh tụ của nhân dân ở vào thời điểm có ý nghĩa nhất, đáp ứng được đòi hỏi của cuộc sống đất nước cần bước vào quỹ đạo chung của thời đại. Trong dòng chảy bất tận của thời gian, có những thời điểm xuất hiện những con người đáp ứng một cách tuyệt vời đòi hỏi đã chín muồi của lịch sử, người ta gọi đó là sự xuất hiện của thiên tài.
Ảnh tư liệu
Điều này cho thấy thiên tài không ra đời từ những cuộc tranh bá đồ vương để giành nhau chiếc ghế quyền lực. Đành rằng trong lịch sử không thiếu những nhân vật cũng đã bước vào lịch sử bằng con đường như vậy, những hôn quân, bạo chúa, những gian thần, nghịch tướng bán nước, bàn chúa cầu vinh, muôn đời bị phỉ nhổ. Phải chăng sự bi hài của lịch sử là có sự trộn lẫn chính tà ấy để giúp cho nhân dân có dịp nhận ra chuyện vàng thau lẫn lộn ấy. Đó cũng là cách để cho nhân dân tự vượt lên chính mình, biết tự “xoay chung quanh mặt trời của chính mình” mà không để bị những ngón đòn lừa mị, ru ngủ của bọn thống trị như C.Mác đã từng chỉ ra. Và đó cũng là lý do trong Di Chúc, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải “động viên toàn dân, tổ chức giáo dục toàn dân”.
Điều cần nói rõ là thiên tài Hồ Chí Minh không đứng cao vời vợi tách khỏi cuộc sống bình thường của người dân mà ngược lại. Thiên tài Hồ Chí Minh, bản lĩnh Hồ Chí Minh được hun đúc từ cuộc sống của nhân dân mình. Mỗi người Việt Nam đều có thể nhìn thấy mình trong sự nghiệp Hồ Chí Minh, trong trái tim của Hồ Chí Minh. Cái làm nên thiên tài Hồ Chí Minh, rèn đúc nên bản lĩnh ấy là vì nhịp đập của trái tim “Người Yêu Nước Hồ Chí Minh” luôn gắn quyện với nhịp đập của cuộc sống đất nước, nơi mà người ấy gửi gấm một “ham muốn, ham muốn đến tộc bậc” là làm sao đem lại cuộc sống ấm no cho con người, đem lại tự do và hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân.
Không có trái tim ấy, không thể có bản lĩnh ấy. Vì rằng, “ở đâu nội dung của sự tất yếu phổ biến không nhất trí được với trái tim, thì sự tất yếu ấy – xét về nội dung- không là gì cả, và phải nhường chỗ cho quy luật của trái tim”. Có lẽ thực chất của “quy luật trái tim” mà Hégel nói đây trước hết là sự trung thực với chính mình, là bản sắc cá nhân được thể hiện một cách chân thực. Vì nói cho đến cùng , quy luật của trái tim là sự phản ánh chân thực nhất biện chứng của cuộc sống với tất cả những sắc thái phong phú và phức tạp của nó. Cho nên, những gì mà trái tim thờ ơ thì mắt cũng không nhìn thấy được!
Cho nên, với Hồ Chí Minh,
“Khi đã quyết rất kiên cường mạnh mẽ
Đốt cháy Trường Sơn đánh Mỹ cũng không sờn”
nhưng
“Bác không bằng lòng gọi trận đánh chết nhiều người là “đánh đẹp”
Con xóa chữ “đẹp” đi như xóa sự cạn hẹp trong lòng con
Thêm hiểu lòng người đối với quân thù như sắt thép
Mà tình thương mênh mông ôm hết mọi linh hồn”.[ Việt Phương. nt]
Với Hồ Chí Minh, “tình thương mênh mông ôm hết mọi linh hồn” ấy trước hết là thương dân, trọng dân vì nhận  thức rõ sức mạnh bất tận của dân. Đây là điểm cốt lõi trong tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh. Nói học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh mà không trước hết vận dụng một cách thiết thực tư tưởng cơ bản này thì chỉ là nói suông.
Đặc biệt, cần lưu ý điều mà Hồ Chí Minh khẳng định rất dứt khoát: “nếu cán bộ không phụ trách trước nhân dân , tức là không phụ trách trước Đảng và Chính phủ, tức là đưa nhân dân đối lập với Đảng và Chính phủ”. Cần nhớ rằng, điều này được nhắc nhở vào năm 1947 khi Bác phê phán gay gắt lối “Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo…Làm theo cách quan liêu đó, thì dân oán. Dân oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị, là thất bại!”
Việc “đưa nhân dân đối lập với Đảng và Chính phủ” là điều tối kỵ đối với người cầm quyền. Có phải khi nói đến điều này, như vẫn thường làm, Bác đã nhắc đến luận điểm của Mạnh Tử: “Vua coi dân như cỏ rác thì dân coi vua như cừu thù” và lên án việc đẩy dân đến chỗ là “cừu thù” rồi dùng hình phạt hà khắc để trừng trị họ “khác nào đặt lưới bẫy dân” .
Mạnh Tử viết: “Nhà cầm quyền không thể bỏ lỡ việc sinh nhai của dân…thường tình của dân là có hằng sản mới có hằng tâm, không có hằng sản thì không có hằng tâm. Không có hằng tâm thì … chẳng cái gì là chẳng làm, đến khi phạm pháp thì người cầm quyền vin vào đó mà chém giết họ, như vậy không khác gì đặt lưới mà bẫy họ. Bậc nhân đức… trị dân mà lại đặt lưới bẫy dân sao? Vậy cho nên bậc hiền quân phải khiêm cung, tiết kiệm, lễ độ đối với dân” ["Đằng văn công thượng"]. Vì vậy, Mạnh Tử giải thích: “Kẻ làm hại đức nhân là “tặc”, kẻ làm hại đức nghĩa là “tàn”. Kẻ tàn, kẻ tặc chỉ là một người thường thôi [không đáng gọi là vua]. Tôi nghe nói vua Võ Vương chỉ giết một người tên là Trụ chứ chưa nghe nói giết vua. ["Lương Huệ Vương hạ"]. Đây là đoạn nhà tư tưởng thời Chiến Quốc giảng cho học trò về mệnh trời và thuyết “nhất trị, nhất loạn”: Trong chương “Thư Thái thệ” Mạnh Tử giải thích: Kinh Thư có câu: “Trời không có mắt có tai, dân nhìn tức là trời nhìn, dân nghe tức là trời nghe”, cho nên theo ý dân tức là theo ý trời. “Trời nổi giận, sai ta xét tội của Trụ, ta phải kính sợ mệnh lệnh và uy của trời”! Ý dân là ý trời là theo nghĩa đó. Nói theo chữ nghĩa bây giờ là tuân theo quy luật vận động của cuộc sống.
Cho nên, không “đưa nhân dân đối lập với Đảng và Chính phủ” cũng chính là “không đặt lưới mà bẫy họ” là điều đã được cảnh báo từ hơn hai nghìn năm trước. Vì vậy Hồ Chí Minh đòi hỏi “phải đưa chính trị vào giữa dân gian” phải “tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng. Làm được điều ấy chính là đi đúng vào quỹ đạo của tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh, điều mà hiện nay đang được thường xuyên rao giảng. Đi ngược lại chính là phản bội tư tưởng Hồ Chí Minh. Cho nên, lắng nghe tiếng nói của dân, tiếp nhận nguồn sức mạnh từ dân chính là điều Hồ Chí Minh thiết tha căn dặn. Nói theo ngôn từ và hình tượng thơ thì như tác giả “Cửa Mở” đã viết từ những năm 60 thế kỷ trước, đó là chính là
“Nơi sự thật chỉ cần là sự thật
Nơi lương tâm đến gặp tấm gương soi
Lời hàn huyên có màu trời hương đất
Bỗng sáng bừng chân lý hiện tinh khôi”! [Việt Phương. Cửa Mở. "người như sự sống sinh sôi"].
Một khi mà cái “màu trời hương đất” ấy bị hoen ố, bị dẫm đạp thì chắc hẳn là lòng Bác quặn đau, và cùng với Bác, tim chúng ta như có ai bóp chặt lại. Hiểu thấu được điều ấy, Việt Phương viết những câu thấm thía :
“Ta khóc những lỗi lầm làm tim Bác thêm đau”.
Đã hơn bốn thập kỷ, câu thơ vẫn nóng bỏng tình thời sự. Mà có lẽ ‘thời sự ” nhất chính là điều mà Thủ tướng Chính phủ đã nghiêm cẩn nhắc nhở những người thi hành công vụ liên quan đến miếng cơm, manh áo của dân.
Chính vì vậy, khi Việt Phương viết:
“Ta tự biết sức ta trong những dòng nước mắt”
thì mỗi người chúng ta đều cảm nhận được có mình trong đó. Vì đó là, những “…Giọt nước mắt thương dân, Dân mình phận long đong…” như người nhạc sĩ tài hoa nọ đã hát. Đó là những “dòng nước mắt trong tim. Chảy lai láng vào hồn…” [Trịnh Công Sơn.] của mỗi chúng ta. Cho nên khi “Ta khóc những lỗi lầm làm tim Bác thêm đau” thì ta hiểu được rằng đó chính là suối nguồn bất tận của tư tưởng và hành động thiết thực và mạnh mẽ khi nhớ đến, nghĩ đến sự nghiệp của Hồ Chí Minh đang cần được bảo vệ và phát huy trong những ngày kỷ niệm ý nghĩa này. Đó là cách học tập tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh sâu sắc nhất!
____________
Tham khảo:
- Hồ Chí Minh Toàn Tập. Tập 12. NXBCTQG. Hà Nội 1995, tr. 560, tr.505.  Tập 5 . tr.294, tr. 293, tr. 298, tr.297
- Võ Nguyên Giáp. “Tổng tập Hồi Ký” NXBQĐND 2006, tr. 30
- “Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh” NXBQĐND. Hà Nội, 1990. tr.224
-  Phạm Văn Đồng “Hồ Chí Minh, Quá khứ Hiện tại và Tương lai” Tập I. NXB ST. Hà Nội 1991,tr.29, tr.98
- G.W.F.Hegel. “Hiện tượng học tinh thần.” Bùi văn Nam Sơn dịch. NXB Văn học 2006, tr.769.
GS Tương Lai

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
Nguyễn Quang Vinh © 2011 - 2012 | Designed by BCA